Mặc
dù các thể loại thơ đều có lối chơi xướng họa, nhưng xướng họa thơ Đường luật nổi
tiếng hơn cả (và cũng có thể từ việc người xưa xướng họa thơ Đường luật mà về
sau nhiều người đem áp dụng các lối chơi tương tự cho các thể thơ khác).
Từ
thời đời Đường, đời Tống bên Trung Quốc, đời Trần, đời Lê ở nước ta đến ngày
nay đã có biết bao nhiêu nhà thơ xướng họa cùng nhau.
Có
lẽ trong lịch sử nước ta,
việc xướng họa thơ Đường luật nổi tiếng nhất vào thời Lê sơ với vai trò trung
tâm của Vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Trong 38 năm tại vị (1460 – 1497), Lê
Thánh Tông đã nhiều lần thực hiện xướng họa với các hoàng tử và bề tôi thân cận
quanh mình. Kết quả những cuộc xướng họa đó lưu lại thành 12 tập thơ và một bộ
tùng thư là Thiên Nam dư hạ. Ví dụ:
-
Hồng Đức quốc âm thi tập (năm 1463) gồm 107 bài của nhà vua và 38 bài họa của
các bề tôi.
-
Anh hoa hiếu trị thi tập (năm 1468).
-
Minh lương cẩm tú (năm 1470)
-
Năm 1491, nhân dịp về bái yết sơn lăng tại Lam Kinh, vua Lê Thánh Tông lại cùng
Hoàng Thái tử, các hoàng tử và quần thần xướng họa, thành tập Văn minh cổ xúy Tập
thơ có 6 bài của nhà vua, sau mỗi bài đều có lời bình của quần thần, có thơ họa
của Hoàng Thái tử, và các Hoàng tử, các bề tôi….
-
Năm 1494, nhân việc hai năm liền được mùa, vua Lê Thánh Tông cùng 28 triều thần
sáng tác tập Quỳnh uyển cửu ca thi tập. Vua xướng 9 bài. Các bề tôi họa lại có
đến vài trăm bài. Đời sau gọi đây là Tao đàn Nhị thập bát tú.
-
Năm 1494, Hoàng đế Lê Thánh Tông còn sáng tác tập Cổ kim bách vịnh thi (Cổ tâm
bách vịnh). Trong tập thơ này, có bốn văn thần tham gia. Tập thơ gồm 10 quyển,
100 bài thơ theo thể ngũ ngôn tuyệt cú, nhà vua ngự chế và họa thơ vịnh sứ thần.
Tiếc
rằng đến nay đã thất lạc nhiều. Hiện có một số bài của Vua, nhưng không thấy bài họa của quần thần.
Cũng có một số bài họa của những cận thần thân tín của Vua nhưng không thấy bài
xướng của Vua, hiếm khi có đủ cả cặp bài xướng – họa.
Xin
giới thiệu một cặp bài xướng họa của Vua và Tiến sĩ Phạm Đạo Phú (1463 – 1539),
một bề tôi thân cận của Vua, có tên trong Nhị thập bát tú. Cặp bài xướng họa
này trong dịp Vua đến lễ tổ tiên tại Từ đường Kiến thụy ở Lam Kinh Thanh Hóa,
in trong tập Văn minh cổ xúy (năm 1491).
Bài
xướng của vua Lê Thánh Tông
Nguyên
tác:
御制幸建瑞堂偶成
(洪德二十二年二月十七日)
黎聖宗
建瑞堂前燕尾環,
龍天潮漲水天寬。
濛濛遠樹輕風捲,
漠漠凝雲細雨寒。
先世積功蒼海闊,
後人衍慶太山安。
鄉中英俊從王事,
遙上鵬程萬里慱。
(文明鼓吹)
Phiên
âm:
Ngự
chế hạnh Kiến Thuỵ đường ngẫu thành
(Hồng
Đức nhị thập nhị niên nhị nguyệt thập thất nhật )
Lê
Thánh Tông
Kiến
Thuỵ đường tiền yến vĩ hoàn,
Long
Thiên triều trướng thuỷ thiên khoan.
Mông
mông viễn thụ khinh phong quyển,
Mạc
mạc ngưng vân tế vũ hàn.
Tiên
thế tích công thương hải khoát,
Hậu
nhân diễn khánh Thái Sơn an.
Hương
trung anh tuấn tòng vương sự,
Dao
thướng bằng trình vạn lý đoàn.
Dịch
nghĩa:
Bài
thơ ngự chế: Tới nhà từ đường Kiến Thụy ngẫu nhiên thành thơ
(Ngày
27 tháng 2 năm Hồng Đức thứ 22 (1491)
Trước
nhà từ đường Kiến Thụy cờ đuôi én bay quanh
Sông
Long Thiên thủy triều lên, nước trời bát ngát
Cây
xa mông lung gió nhẹ cuốn bay
Mây
ngưng lặng lặng mưa phùn se lạnh
Tổ
tiên tích công đức tựa biển rộng mênh mông
Cháu
con hưởng hạnh phúc như Thái Sơn vững chãi
Các
bậc anh tuấn trong làng theo giúp nhà vua
Tựa
cánh chim đại bàng bay bổng muôn dặm.
Lời
bình:
Thần
Thân Nhân Trung phụng bình: Thần vâng mệnh đọc bài thơ thánh chế này, thấy bài
thơ trước thì mô tả cảnh thực chân xác tuyệt diệu, sau thì phô bày ca vịnh việc
thực, từ khỏe, khí tráng. Đó là tấm gương tốt đẹp đã phát ra một cách tự nhiên,
không cần mượn sự đẽo gọt mà trăm sự xảo diệu vẫn lộ rõ. Bọn thần thường vẫn cố
gắng làm theo phương pháp ấy, mà rút cục vạn phần dường như không làm nổi một.
Bài
họa của Phạm Đạo Phú
Nguyên
tác:
奉和御製幸建瑞堂
范道富
堂前縹緲碧流環,
交壓龍宮海色寬。
雲樹曨通浮淑氣,
煙花婥約裊輕寒。
昔年慶澤源流遠,
今日民風任寂安。
瑣瑣幸蒙天地德,
南溟準擬效鵬摶。
Phiên
âm:
Phụng
họa Ngự chế Hạnh Kiến Thụy đường
Phạm
Đạo Phú
Đường
tiền phiếu diểu bích lưu hoàn,
Giao
áp long cung hải sắc khoan.
Vân
thụ lung thông phù thục khí,
Yên
hoa sước ước niểu khinh hàn.
Tích
niên khánh trạch nguyên lưu viễn,
Kim
nhật dân phong nhậm tịch an.
Tỏa
tỏa hạnh mông thiên địa đức,
Nam
minh chuẩn nghĩ hiệu bằng đoàn.
Chú
thích:
Bằng
đoàn: Chim bằng tung cánh vút bay lên. Sau thường dùng chữ này để chỉ sự phấn đấu
vươn lên tiền trình xa rộng. Thiên Tiêu dao du của Trang Tử có viết: “Bằng chi
tỉ ư nam minh dã, thuỷ kích tam thiên lý, đoàn phù dao nhi thượng giả cửu vạn
lý” (Chim bằng đến biển nam, nước sóng sánh ba nghìn dặm, vung cánh vút theo
gió lốc mà lên chín vạn dặm).
Dịch
nghĩa:
Vâng
họa bài Vua
đến từ đường Kiến Thụy của Đức Vua
Trước
từ đường vời vợi, dòng nước biếc uốn quanh,
Xa
xa sát long cung, màu nước biển mênh mang.
Mây
trùm ngọn cây, khí lành nổi lên,
Khói
bọc khóm hoa, hơi lạnh nhẹ vương.
Nhiều
năm mừng ơn như nguồn nước chảy xa,
Ngày
nay dân sống trong đùm bọc bình yên.
May
mắn được nhờ chút ít ở đức trời đất,
Muốn
bắt chước chim bằng bay qua biển Nam.
Dịch
thơ:
Bài
xướng của Vua Lê Thánh Tông
Kiến
Thụy rợp cờ đuôi én vây
Long
Thiên triều lộng nước dâng đầy
Êm
đềm mây tụ mưa phùn lạnh
Xào
xạc cây xa gió nhẹ lay
Công
đức tổ tiên xanh biển rộng
Phúc
lành con cháu vững non dày
Trong
làng anh kiệt theo phò chúa
Muôn
dặm chim bằng cất cánh bay.
PHẠM
VĂN DƯƠNG (dịch)
Bài
họa của Phạm Đạo Phú
Trước
nhà thăm thẳm nước xanh vây
Xa
sát long cung sắc biển đầy
Mây
phủ cây cao trùm khí tốt
Khói
vương hoa khóm lạnh hơi lay
Mừng
ơn năm trước nguồn tuôn chảy
Dân
sống hôm nay phúc ấm dày
May
mắn được nhờ trời đức độ
Chim
bằng muốn vượt biển Nam bay.
PHẠM
VĂN DƯƠNG (dịch)
Cảm ơn trang Blog đã đăng bài
Trả lờiXóa