Ngày
04-10-2019, tại
Thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh),
Hội thơ Đường luật Việt Nam vừa tổ chức thành công Hội thảo khoa học Thơ Đường
luật đời Lý.
Về dự hội thảo có các vị trong ban cố vấn, thường trực
lãnh đạo, ban chấp hành Hội thơ Đường luật Việt Nam và hơn 200 đại biểu là hội
viên đến từ các chi hội trên cả nước. Nhiều đại biểu là Giáo sư, Tiến sĩ và các
nhà nghiên cứu về thơ Đường luật đã về
dự
và phát biểu tham luận.
Sau nghi lễ dâng hương tưởng niệm tại Đền Đô, là chương trình văn nghệ chào mừng của các nghệ
sĩ liền anh, liền chị quê hương Quan
họ Bắc Ninh.
Khán giả đặc biệt quan tâm tiết mục ngâm bài thơ thần “Nam quốc
sơn hà” thực hiện trong
chương trình chào mừng, đã để lại ấn tượng sâu sắc.
Chủ
tọa hội thảo gồm các
vị: Giáo sư
Nguyễn Đình Chú;
Giáo sư Nguyễn Khắc Phi; Giáo sư Đặng Vũ Minh; NSƯT Nguyễn Thế Phiệt. Thư ký hội thảo là nhà thơ Nguyễn Đức Thọ
và nhà thơ Đặng Văn Duy.
Sau diễn văn khai mạc hội thảo do Giáo sư Nguyễn Đình Chú trình bày,
NSƯT Nguyễn
Thế Phiệt (Phó
Giám đốc Viện Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát huy Di sản Văn hóa Dân
tộc Việt Nam) phát biểu chào mừng; Phó Giáo sư Nguyễn Công Lý báo
cáo đề dẫn hội thảo.
Hội
thảo đã nghe những bài tham luận: “Một số vấn đề quanh bài thơ Nam quốc sơn
hà” (Giáo sư Nguyễn
Khắc Phi); “Thơ
Đường luật trong văn học đời Lý – mấy điều cảm nghĩ” (Phó Giáo sư Trần Thị Băng Thanh); “Thơ
Đại Việt đời Lý với sự tiếp biến ảnh hưởng của thơ Đường luật” (Phó Giáo sư Nguyễn Thị Bích Hải); “Diện mạo và đặc điểm thơ Đường luật đời
Lý trong sách Thiền uyển tập anh” (Phó
Giáo sư Nguyễn Hữu Sơn); “Tính hùng biện trong thơ
Thiền đời Lý” (Phó
Giáo sư Đoàn Thị Thu Vân); “Hai bài thi kệ Đường
luật quan trọng thời Lý Trần – Khảo sát văn bản và ý nghĩa” (Phó Giáo sư Đoàn Lê Giang); “Những tác phẩm đỉnh cao của văn học đời
Lý” (Tiến sĩ
Nguyễn Minh San); “Vị trí thơ Đường luật đời Lý trong Văn học Việt Nam” (Nhà thơ Phạm Hữu Vệ); “Mấy suy nghĩ về thơ
đời Lý” (Nhà
thơ Lê Đình Sơn).
Nhà
Lý là triều đại mở đầu cho thời kỳ độc lập, tự chủ, ổn định, lâu dài của dân tộc
ta. Tồn tại 216 năm (từ năm 1010 đến năm 1225), trải qua 9 đời vua (mở đầu là
vua Lý Công Uẩn, kết thúc là Lý Chiêu Hoàng), Nhà Lý là một trong những vương
triều phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Làm nên thành tựu
lớn lao đó, có sự đóng góp không nhỏ của những nhân tài Phật giáo – những vị
Thiền sư – những trí thức tinh hoa của thời đại ấy. Họ không chỉ đóng góp trí
tuệ, công sức trong việc kiến tạo vương triều Lý, bảo vệ, gìn giữ và phát huy
những thành quả của nhà Lý trong suốt nhiều năm sau đó, mà còn là lực lượng chủ
yếu đặt nền móng xây dựng và phát triển văn hóa, đặc biệt là văn học thời Lý.
Trong việc xây dựng và phát triển văn học thời Lý ấy, sự đóng góp nổi bật nhất,
thành tựu to lớn nhất của các tác giả – thiền sư thời Lý là ở mảng/loại hình
thơ Đường luật.
Do
nhiều nguyên do khác nhau, mà nguyên do chủ yếu là chiến tranh, di sản văn học
viết thời Lý hiện còn, được tập hợp in thành sách không nhiều. Đúng như nhà thơ
Lý Tử Tấn sống vào giữa thế kỷ XV, nhận định: “Phần còn lại chỉ là một, hai
trong trăm ngàn phẩn” những sáng tác của các nhà văn thời Lý. Những tác phẩm
thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý cũng chịu chung số phận như vậy. Tuy thế,
với số lượng tác giả là nhà sư/thiền sư chiếm số lượng lớn nói ở trên, không
khó hiểu khi số lượng tác phẩm (để lại được tập hợp trong sách Thơ văn Lý – Trần)
của các tác giả là nhà sư cũng chiếm số lượng nhiều nhất. Cụ thể, trong 109 tác
phẩm thành văn ở cả hai loại hình văn và thơ, tác phẩm của các nhà sư chiếm số
lượng nhiều hơn, với 67 tác phẩm (trên 60%). Trong số 67 tác phẩm văn học ấy,
đa số các tác phẩm thuộc loại hình thơ ca (có 59 tác phẩm, chiếm gần 90%), số
tác phẩm thuộc loại hình văn (bài văn ngắn và bi ký) chỉ có 08 tác phẩm.
Căn cứ vào nội dung tác phẩm, thơ ca thời Lý có 4 thể chủ yếu, là: thơ sấm vĩ,
thơ suy lý, thơ trữ tình, thơ tự sự. Có một điểm chung là, để chuyển tải nội
dung trên, các nhà thơ – thiền sư thời Lý đều sử dụng/ vận dụng hình thức/ vỏ
là thơ Đường luật (đương nhiên là viết bằng chữ Hán). Như vậy, 59 tác phẩm thơ
ca (thơ, kệ) của các nhà thơ – thiền sư thời Lý là thơ Đường luật Việt Nam.
Trong di sản thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý ấy, có một số tác phẩm
như: Bài thơ “Thị đệ tử” (Bảo với đồ đệ) của Thiền sư Vạn Hạnh (? – 1018), bài
thơ “Đáp nhân tri túc chi vấn” (Trả lời người hỏi về hai chữ “Tri túc”) của nhà
sư Nguyễn Trí Bảo (?– 1190), bài kệ “Hưu hướng Như Lai” (Đừng theo bước Như
Lai) của Thiền sư Nguyễn Quảng Nghiêm (1122 – 1191), bài thơ “Cáo tật thị
chúng” (Có bệnh bảo mọi người) của Đại sư Mãn Giác (1052 – 1096),… được đánh
giá là những tác phẩm đỉnh cao của văn học thời Lý.
Những
thiền sư – nhà thơ Đường luật thời Lý quan tâm, phản ánh trong các tác phẩm của
mình hầu hết mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập, tự
chủ, hùng cường, ổn định, lâu dài. Song, một mảng đề tài lớn, một xu hướng sáng
tác nổi bật nhất của các thiền sư – nhà thơ Đường luật đời Lý (qua những tác phẩm
thơ Đường luật để lại nói đến trên đây) là mảng đề tài về Con Người trong sự
chi phối/ ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo và trong mối quan hệ Tam giáo: Phật – Lão – Nho. Phật giáo là tôn giáo ngoại
lai, từ bên ngoài truyền vào nước ta từ lâu, đến thời Lý nó đã “cắm rễ” sâu bền,
và đã trở thành Quốc giáo. Nhưng những vấn đề cơ bản nhất của Phật giáo (cũng
là vấn đề của không riêng Phật giáo), như: “sống – chết”, “sinh – lão – bệnh – tử”, “sắc – không”,
“xuất thế – nhập thế”, “tâm – pháp”, “niết bàn”,… là
gì vẫn chưa phải là đã được những người theo đạo Phật và xã hội thấu đạt. Để
làm sáng tỏ những phạm trù đó, đồng thời để tháo gỡ những băn khoăn, cũng là những
cản trở con đường đến với “giác ngộ”, “giải thoát”, “niết bàn”,… của phật tử, nhiều vị thiền sư đã đưa ra
những kiến giải của mình. Và, thật cao siêu, những kiến giải mang tính triết lý
đó phần lớn được các nhà sư chuyển tải dưới dạng thơ ca theo thể Đường luật.
Đời
Lý được xem như triều đại thực sự mở đầu cho nền thơ dân tộc được viết bằng chữ
Hán với chủ yếu là thể thơ Đường luật. Chiếm bộ phận lớn trong thơ đời Lý là
thơ Thiền. Trước hết, đó vốn là những bài kệ nhằm giảng minh triết lý thiền
thông hoặc đúc kết những điều lĩnh hội sâu xa nhất trong cả đời tu học của một
thiền sư để trao truyền lại cho thế hệ đi sau lúc viên tịch.
Tuy
nhiên, do tính chất truyền dạy đặc biệt của Thiền tông – “trực chỉ nhân tâm” –
nên các thiền sư không lý luận, diễn giảng dông dài để học trò dính mắc vào chữ
nghĩa, vốn chỉ có tính quy ước, rất tương đối hữu hạn, mà thường dùng những
hình ảnh ẩn dụ từ thiên nhiên, cuộc sống thường ngày cốt để khơi gợi cho đối tượng
tự mình suy ngẫm và ngộ ra chân lý. Thơ của các vị Thiền sư là thể thơ như “vô
ngôn”, “đốn ngộ”, giàu sức gợi, đáp ứng được tiêu chí về từ ngữ, câu thơ, cách
diễn đạt và
kết cấu bài thơ.
Sau
các báo cáo tham luận nghiên cứu về thơ Đường luật đời Lý, Giáo sư Nguyễn Khắc Phi đã tổng kết hội thảo; Nhà thơ Nguyễn Đức Hùng (Phó Chủ tịch thường trực Hội thơ Đường luật Việt Nam phát biểu cám ơn, bế mạc hội thảo. Dưới đây là một vài hình ảnh ghi lại tại hội thảo:
HÀN
NHUỆ CƯƠNG (Tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét