Hôm
ấy, tôi đang suy tư với tập bản thảo thơ Hoa Đăng đặt ở trên bàn, thì có anh bạn
ào vào:
-
Ui, đọc gì mà say sưa thế?
Tôi
đáp:
-
Có đọc thơ đâu, mà đang nghiên cứu tâm thế của một thiếu phụ… Vâng, một thiếu phụ xinh đẹp đã kết hôn,
nhưng lại đang sống một cuộc sống của một người sương phụ với 2 cậu con trai tuấn
tú, ngoan ngoãn, chu chí học hành; còn mình thì ung dung kinh doanh, tu thiền,
học Anh văn và làm thơ…
Tập
bản thảo này có gần 90 bài thơ, mà có tới 31 bài có nội dung thơ thiền, thơ kệ;
phần còn lại là những bài viết theo cảm xúc tình đời…
Tôi
thành thật xin lỗi Hoa Đăng. Tôi đã hé lộ đôi chút về đời riêng của chị. Tôi
nghĩ, nếu không như vậy, thì tôi rất khó làm cho bạn đọc hiểu được thơ chị, thơ
của một người phụ nữ tuổi mới có 40, mà sao chỉ thấy “an nhiên tự tại”, “vui với
gió trăng”, “kinh cầu tâm nguyện”,…
Bài
“Biết”,
chị nêu ra quy
luật bất biến “hoa nở, hoa tàn luật
chẳng qua”, cũng như “Bình minh ngả bóng điểm chiều tà”; nó có khác chi, đời
người con gái, khi “Mặn nồng hương sắc…” khi “Bạc bẽo tình đời…”. Rồi người thiếu phụ 40 xuân này vẫn đúc
rút ra một câu kết định mệnh “Cổ kim trời định nhân nào thắng”, và chị cho rằng,
cái vô ngã mới là nguyên ủy của cái tâm thiện “Thiện tính lu mờ bởi chữ ta”.
Cái ta, một khi nó lớn quá thì ta sẽ thành u mê, tăm tối, sa vào hỏa ngục có
ngày…
Thật
là một chân ngôn.
Bài
“Hương đêm” cũng là một bài có mầu sắc thoát trần như thế.
Hai
câu mở đề:
“U tịch giữa màn đêm
Sương rơi đọng lá
mềm”.
Đã
đưa ta vào cõi thanh u, huyền diệu, một cõi thiền…
Đến
hai câu thực của bài thơ:
“Ánh trăng in đáy nước
Hương quế quyện
sân thềm”.
Cái
không gian tĩnh lặng nay dễ đưa tâm trí ta vào thiền định tuyêt đối.
Hai câu thực đề đã mở rộng ra cho 2 câu mở đề theo hướng tĩnh hóa cõi hư vô ngay thời khắc ta đang luân lạc trong miền cát bụi.
Hai câu thực đề đã mở rộng ra cho 2 câu mở đề theo hướng tĩnh hóa cõi hư vô ngay thời khắc ta đang luân lạc trong miền cát bụi.
Tiếp
đến hai câu luận:
“Pha tách trà thanh tịnh
Thoảng cơn gió dịu
êm”.
Đọc
thơ mà ta tưởng như thấy tác giả thần thái ung dung, nhàn nhã và ngay đến gió
cũng như cảm theo người… thật
là tiên cảnh ở chốn trần ai.
Mạch
thơ cứ nhẹ nhàng cùng với văn phong vịnh cảnh, nhưng “thi mạch kỵ lộ”; mạch thơ
được dấu kín ý tình. Đến hai câu kết ta mới thấy rõ ý tác giả:
“Cả khung trời tĩnh mịch
Đuốc huệ bỗng ngời
thêm”.
Thì
ra, cứ vào đêm muộn, khi mà “sương rơi đọng lá mềm”, khi không gian trong như lọc,
ta uống ngụm trà, ta ngồi kiết bàn, ta từ từ thả lỏng cơ bắp, thả lỏng thần
trí, ta thiền định…và vào lúc ấy, ngọn đuốc hiểu biết sẽ sáng ngời lên; cả phần
“sắc”, cả phần “không” của con người ta như bay lên, nhẹ nhàng hơn.
Vậy
đó là chân thiền.
Vậy
đó là ta đã biết cách sống cho đạo, cho đời , cho ta và cho gia đình nhỏ bé của
ta…
Khi
đọc phần thơ trên, ta cứ nghĩ Hoa Đăng là người thoát tục, nhưng không hẳn là
thế. Khi đọc những bài khác, thì ta mới thấy lòng trần của người thơ đâu có dứt.
Ở
bài “Bãi Tầm Dương”, Hoa Đăng cũng biết thả lòng theo ngoại cảnh:
“Hàng
dừa ngả bóng lay hồn cát
Ngọn sóng thay
hình động sắc mây”.
Chỉ
cần nghe đến từ “lay”, từ “động” và nghe câu kết bài thơ thôi: “Phố đêm nhộn nhịp đèn hoa lệ/ Nữ tú nam thanh sánh bước đầy”, là ta đã hiểu nội tâm và ngoại cảnh của người
thơ…
Thơ
vịnh cảnh của Hoa Đăng có những bài đọc lên ta cũng cảm nhận thấy điều đó, Bài
“Vũng Tàu biển hát”, xin đọc phần thượng giải:
“Cát vàng trải phẳng bãi thùy dương
Nắng
chiếu lung linh giỡn sóng trường.
Gió
thổi vấn vương hòa biền hát
Mây chồm tha thiết
gọi người thương”
Những
động từ, những tính từ trong thơ vịnh cảnh đã lay thức nội tâm ta lắm lắm.
Đến
bài “Khúc tiêu dao” cũng vậy, xin
đọc phần hạ giải:
“Cá lặn chim sa quên lối mộng
Cung
cao giọng thấp gợi tình thâm.
Nghê
thường chẳng dám so mình sánh
Hợp nhất tâm tiêu
tựa sóng ngầm…”
Chỉ
cần nghe đến hai chữ “sóng ngầm” thôi, ta đã cảm thấu khúc tiêu của người thơ.
Bài
“Sóng tình”, tôi thấy hơi lạ. Đọc hai câu mở, ta mới thấy thơ phô bầy cảnh sắc
Đà Lạt:
“Rừng hoa khoe sắc đón bình minh
Đà Lạt thiên nhiên
cảnh hữu tình”.
Đến
hai câu thực, ta bắt đầu thấy một chút sóng trong lòng người thơ từ những động
từ “mờ khói”, “động
vườn”:
“Lất phất sương bay mờ khói ảo
Dập dờn bướm lượn
động vườn xinh”.
Sang
hai câu luận, ta thử xem cái sóng tình nó dâng cao đến bao nhiêu:
“Đồi thông gió cuốn hồn say mộng
Thủy tạ trăng soi
bóng gợi hình”.
Những động từ “say”, “gợi” đã làm cho lời thơ như cựa quậy lên, như phát sóng lên…
Mạch
thơ vẫn thầm kín thăng hoa ở 2 câu kết:
“Tĩnh lặng màn đêm choàng đáy nước
Mặt hồ ôm trọn ánh
sao đêm”.
Tôi
rất thích cái động từ “choàng”, “Tĩnh
lặng màn đêm (ôm) choàng đáy nước”
và, “ôm trọn”, “mặt
hồ ôm trọn ánh sao đêm”… Ôi, cái đam mê này nó mới tham lam đáng
yêu làm sao!
Đọc
chậm, đọc từng chữ của bài thơ, ta mới hiểu được cái sóng tình ở đây nó khác
cái sóng biển ở chỗ nào; nó chỉ gợn lên từng đợt ở trong lòng, chứ nó không ào ạt.
Mạch thơ kín đáo, ý thơ nhẹ nhàng. Đọc đến câu kết rồi ta mới ngộ ra chữ “sóng tình”.
Vậy
ấy mới là Hoa Đăng... Thơ
Hoa Đăng.
Trên
đây tôi nói thơ Hoa Đăng là một bầu tâm sự đa chiều. Vâng, thơ của Hoa Đăng dĩ
nhiên là tâm sự của Hoa Đăng. Nhưng ở đây, tâm sự ấy nó lại là tâm sự đa chiều.
Ta
hãy khảo sát một bài thơ nữa để biết rõ hơn điều vừa nói. Bài “Đếm”, phần
thượng giải, lời thơ rất trần ai:
“Đếm nhớ đếm mong bước dặm trường
Đếm
làn sóng vỗ dậy niềm thương.
Đếm
muôn giọt nắng xuyên cành lá
Đếm vạn cơn sầu gửi
gió sương”.
Rõ
ràng chỉ có người đời thì mới có 7 cái tình đời ai, bi, ái, ố, hỷ, nộ, dục đến
như vậy.
Nhưng
đến phần hạ giải, thì lời thơ thoát tục hoàn toàn:
“Đếm tiếng chuông ngân, ngân mỗi khắc
Đếm
lời kinh vọng, vọng từng chương.
Đếm
tràng chuỗi hạt tâm thanh tịnh
Đếm ánh hào quang
cõi Phật đường”.
Ta
có thể đoán
biết, Hoa Đăng đã tu tại gia. Sự co, kéo giữa cõi tục và cõi tu là hiển nhiên
thôi.
Viết
đến đây, tôi bỗng không muốn mình chỉ là người biết “nịnh thơ”. Tôi vẫn đủ tỉnh
táo để nói thơ Hoa Đăng trong tập này dùng nhiều từ Hán Việt và nhiều thuật ngữ
của nhà chùa. Cái nhược điểm này chính là cái hạn chế của thơ Hoa Đăng. Nếu
tránh được những nhược điểm đó và phát huy hơn nữa cái bản thể sẵn có là, cái
tinh tế trong quan sát sự vật khách quan, cái nhẹ nhàng trong cảm xúc thế tình,
thì thơ Hoa Đăng sẽ đẹp như cái tên của người thơ.
Chúc
Hoa Đăng luôn trau luyện ý chí, vừa làm tròn thiên sứ của bà mẹ, vừa thực hiện
đươc nguyện vọng sâu xa của mình…
NGUYỄN VĂN THỤ
(Phó Chủ tịch Hội Thơ Đường luật Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét