Tôi
được biết, người sáng tác thơ Đường Luật, khi bắt gặp một cảnh huống thơ, bao
nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực. Chưa xong, người sáng tác
thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ
trong bài có thanh trắc phải xấp xỉ số thanh bằng. Nếu ta gọi chữ có thanh bằng
là số (+), chữ có thanh trắc là số (–), thì luật âm dương này thăng giáng bù trừ
sát sao đến từng liên thơ, đến cả bài thơ. Đó chính là điều hé mở khái niệm về
sự cân bằng, có ý nghĩa triết học cổ phương Đông, nằm trong hình thức thơ Đường
Luật.
Ý
nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối ngẫu. Trong một liên thơ
(hai câu) được gọi là có đối, thì câu trên như tung, câu dưới như hứng, nó
nương vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạc. Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả
đưa đối ngẫu vào thể thơ này như một điều bắt buộc.
Từ
đầu thế kỷ trước, đối mặt với sự thắng thế của phong trào thơ mới, Vũ Hoàng
Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Đường Luật, ông đã sáng tác
nhiều bài thơ không đối, chỉ giữ lại có các luật còn lại. Vũ Hoàng Chương xem
những bài thơ đó chỉ là một thực nghiệm. Sau này, song song với việc sáng tác
theo thể thơ mới, ông còn sáng tác nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh (như
bài đa thủ “Giấc mơ tái tạo”).
Chúng
ta nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ luật, thì đừng có bao giờ bực bội giữa
khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai cặp đối ở hai câu thực, luận
mà nóng vội cho rằng: làm gì mà phải đối chác chặt chẽ như vậy.
Đối
ngẫu trong thơ Đường Luật, nói tổng quát là có 2 phép: Phép “chỉnh đối” và phép
“nghệ thuật đối” (chữ nghệ thuật do tôi tự
đặt).
Dưới
đây chúng tôi xin được trao đổi về 2 phép đối này đối với thơ Đường Luật thể thất
ngôn bát cú. Các ví dụ được nêu ra để phân tích, chúng tôi lấy từ một số bài
thơ đã in trong “Thơ Đường quê lụa” tập 5, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008.
+ Phép chỉnh đối:
Nguyễn
Thu Hà, người trẻ tuổi nhất của CLB Thơ Đường Hà Nội, trong bài “Duyên quê”, cặp
thực, đối như sau:
Anh
nắm bàn tay thon ấm áp
Em cười đôi mắt
sáng long lanh.
Thật
là chỉnh, thật là chính danh: anh với
em, bàn tay với đôi mắt (Danh
từ đối với Danh từ), thon với sáng (Tính từ đối với nhau), ấm áp với long lanh (Trạng từ láy đối nhau). Hai câu thơ tình đằm thắm đến thế
mà lại không thấy lả lơi. Thu Hà đã huy động phép đối rất nghiêm để đạt hiệu quả.
Hạnh
Anh (Đỗ Biện), trong bài “Đêm thu” câu 5, 6 đối như sau:
Hoa
cúc bâng khuâng ly rượu ngát
Hoa nhài thao thức
chút hương phôi.
Cặp
đối chính danh này rất nghiêm về thể thức, nhưng lại rất hào hoa.
Cụ
Tạ Đăng Viêm, ngoại 80, có bài “Tự thọ” rất hóm hỉnh, cụ có cặp luận:
Kính
mắt gà đeo tròng chấp chới
Gậy càng cua chống
bước lon ton.
Bằng
hai câu đối chặt chẽ, như vẽ nên, như trông thấy một cụ đại thọ nhanh nhảu hồn
nhiên trước mắt ta.
+ Phép đối nghệ thuật:
Để
cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người
xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn.
Phép
Lưu thủy đối:
Ví dụ: Còn
chăng lời hẹn bên trang sách,
Hay đã tàn theo
ánh lửa đèn.
Theo
quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại xét: Hai câu thơ có cấu
trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang
câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối.
Tất
cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương tự như: còn chăng,… đã
sinh,… bỗng dưng,… ứng với đầu câu dưới là các chữ tương tự như: hay đã,… phải
có,… để mà,… v.v,... thì liên thơ đó đã theo phép đối nói trên.
Phép
Tá tự đối:
Ví dụ: Nghèo
sạch thanh danh nên gắng giữ
Giầu sang, khó
tính chớ nên chơi.
Câu
trên, “thanh danh” là danh từ, câu dưới “khó tính” là tính từ, xét thế thì quả
là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng (không
theo nghĩa thật), thì chữ “khó”, chữ “thanh” lại là tính từ; Chữ “danh” và
chữ “tính” lại là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối chặt chẽ với
nhau. Phép đối này người ta lợi dụng sự đồng âm dị nghĩa để Tá tự đối (như: Hai mái trống tung đành chịu dột/ Tám giờ chuông điểm phải nằm co –
của Tú xương).
Phép
Số
tự đối gắn với Tá tự đối:
Ví dụ: Học
bảy nghề còn lo thất nghiệp
Làm ba vụ vẫn
đói tư mùa.
Ở
câu trên, ta có “bảy nghề” chiếu xuống câu dưới để đối với “ba vụ”. Ở câu dưới
có “tư mùa” chiếu lên để đối với “thất nghiệp”; âm “thất” được hiểu theo 2
nghĩa, nghĩa chính là “mất” và nghĩa trại ra là “bảy”. Phép đối này được xem
như là phép Số tự đối có kèm theo lối
chơi chữ (có thể liên hệ đến: Nhớ nước
đau lòng con cuốc cuốc – của bà Huyện Thanh Quan).
Thêm
một ví dụ, cặp luận trong bài “Khúc Giang” của Đỗ Phủ:
Tửu
trái tầm thường thiên hạ hữu
Nhân sinh thất
thập cổ lai hy.
(Nợ rượu tầm thường
thiên hạ nhiều/ Đời người bảy mưoi xưa nay hiếm)
Câu
trên, “tửu trái”, chiếu xuống “nhân sinh”, 2 danh từ đối nhau thật là cân chỉnh.
Còn “thiên hạ hữu” chiếu xuống “cổ lai hy” 2 ngữ này đối nhau cũng rất cân.
Nhưng “tầm thường” là tính từ chiếu xuống “thất thập” là danh từ chỉ số lượng,
thì lại không đối chăng? Chả lẽ cụ Đỗ Phủ làm thơ luật lại bị thất đối!? Tôi có
hỏi một vị, thì được trả lời: “Đó chính là lối bất đối chi đối”. Cho đến một
ngày, nhân tra tự điển Hán Việt để tìm nghĩa một chữ gì đó, thì bất ngờ tôi bắt
gặp chữ “tầm thường”. Từ điển giải thích “tầm thường” là đồng âm dị nghĩa với
đơn vị đo chiều dài đời nhà Đường: “tầm” là 8 thước, “thường” là 2 thước, như
trượng, ngũ ở Việt Nam.
Từ
đó tôi đã ngộ ra, nếu tá tự, mượn cái âm dị nghĩa, thì “8 thước” và “2 thước”
(tầm thường) đem đối với “bảy, mười” (thất thập) thì hay quá rồi còn gì! Nếu
không bình tĩnh, ta sẽ chê cụ Đỗ Phủ thì thật ngại quá.
Phép
Cú trung đối:
Ví dụ: Màn trời, chiếu
đất con người khổ
Nước vật, thuyền
xơ cá biển nghèo.
Nếu
câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng bất đối.
Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: màn trời đối với chiếu đất; nước vật đối
với thuyền xơ; đuôi câu trên (con người khổ) đối rất chặt với đuôi câu dưới (cá
biển nghèo). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân bằng. Đây là Cú trung đối.
Tuy
nhiên còn một số phép đối khác chúng ta ít vận dụng, xin được dẫn ra đây để
cùng tham khảo
a) Lấy
của, đánh người, quân tệ nhỉ
Xương
gà, da cóc, có đau không
(Nguyễn Khuyến)
b) Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chưa phỉ
lại yêu ngày
(Hồ Xuân Hương)
c) Công đức tu hành, sư có lọng
Xu hào rủng rỉnh,
mán ngồi xe.
(Tú
Xương)
Chúng
ta để ý: Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã tổ chức từ ngữ ở từng
câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai liên đối a, b nêu trên
vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần
có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ a, b trên
chúng ta quy vào phép Tựu cú đối.
Trong
câu (c) của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai thành ngữ để chọi
nhau “công đức tu hành” chọi với “xu hào rủng rỉnh”. Mặt khác đuôi của từng câu
lại đối rất chặt với nhau “sư có lọng” đối với “mán ngồi xe”. Phân tích đặc điểm
này để kết luận: đây cũng là phép Tựu cú
đối như a và b. Cú trung đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của
câu văn na ná như nhau, nên còn có tên chung là Đương đối.
Phép
giao cổ đối: Cụ Trần Tuấn Ngọc, trong bài “Tự nhủ” (Bạn và Thơ là xuân –
NXB VHDT, Hà Nội 2004), có câu luận:
Chân
bước vững, đường chiều khấp khểnh
Rừng cây rậm rạp,
trúc vươn cao.
Đây
chính là phép giao cổ đối “chân bước vững” đối cân chéo xuống với “trúc vươn
cao” và “rừng cây rậm rạp” đối lệch chéo lên với “đường chiều khấp khểnh”.
Phép
Bất đối chi đối (khoan
đối):
Trong
buổi lễ tế “Trận vong tướng sỹ” thế kỷ 19, quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành có
sai trưng câu đối chữ Hán (nay dịch nghĩa) như sau:
Nhật
mộ hương quan hà xứ thị
Cổ lai chinh chiến
kỷ nhân hồi.
Bóng chiều đã ngả đâu quê cũ
Xưa
nay chinh chiến mấy ai về.
Câu
trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu. Câu dưới lấy từ thơ Vương Hàn,
bài Lương Châu Từ.
Cái
hay của đôi câu đối này là: Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả ở thời
gian khác nhau, mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. Câu 1 có đại ý là cảm
thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là quá hợp với nội
dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ. Đây là phép Bất
đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ
chú trọng đến ý thơ. Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng
với nhau.
Người
xưa khuyên rằng, nếu một khi ta chưa thật thạo về các phép đối, thì chỉ nên sử
dụng các phép chỉnh đối, lưu thủy đối, cú trung đối. Còn các phép đối khác,
chúng ta hãy cứ làm quen trước đã.
Vẫn
phải thưa thêm về các phép đối thơ:
1-
Đối với cặp thực và cặp luận, dù ở dạng thức nào, nói chung nhất, đều phải
hội đủ 3 yêu cầu:
-
Đối ý: Ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ xung ý nghĩa cho nhau.
-
Đối từ loại: Danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với
tính từ. Phải nắm được các phép biến đổi từ loại ở các ngữ cảnh khác nhau. Tuy
nhiên, cũng có phép đối không yêu cầu đối từ loại như theo phép chiếu chữ, mà ở
đó lại có sự xoay chiều để đối chéo vào nhau.
-
Đối thanh: Với thơ thất ngôn, các chữ 2, 4, 6, 7; với thơ ngũ ngôn, các chữ 2,
4, 5 là có các thanh bằng trắc đối nhau.
2-
Đối với thơ trốn vận, câu 1 và câu 2 phải đối nhau, gọi là “song phong đối”. Song phong đối không đòi hỏi phải đối chỉnh như
cách đối trong các cặp thực và luận của bài bát cú, mà chỉ cần đối ý.
3-
Đối với câu 1 và câu 2 của thơ “không trốn vận” thì hoàn toàn không bắt buộc phải
đối; nếu có đối là do người làm thơ tùy ý đặt ra mà thôi. Đối trong trường hợp
này được gọi là “đối lệch”. Ví dụ, 2
câu mở đầu bài thơ “Cảnh chùa Hương” của Khánh Ly có đối lệch:
Này
phong, này nguyệt mẩn mê thay
Kìa núi, kìa
sông quấn quýt say
Ta
thấy phần tử nào trong câu cũng có đối (đối ý, đối thanh, đối từ loại) nhưng riêng chữ thứ 7 thì chúng đều hạ thanh bằng, không đối thanh. Ta
hãy coi đây là trường hợp đối lệch. Đối lệch không thể áp dụng ở các cặp thực,
luận và các liên đối độc lập.
4-
Bên trên, chúng ta có nói đến đối từ loại, nhưng lại cần tinh tế kẻo lại máy
móc như câu chuyện vui sau đây:
Trong
buổi học xưa, thầy đồ hắng giọng ra vế đối: “Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc” rồi
hỏi học trò:
-
“Thần” đối với gì?
Học
trò đồng thanh đáp: “Với Thánh ạ!”
Thầy
khen:
-
Được ! Thế “nông” đối với gì?
Học
trò lại đồng thanh: “với sâu ạ !”
Thầy
nức nở khen:
-
“Nông” đối với “sâu”, nghe được! Giỏi đấy! Thế còn “giáo” đối với gì? – với
“mác” ạ!
-
“Dân” đối với gì? – với “quan” ạ!
-
“Nghệ” đối với gì ? – với “gừng” ạ !
-
“Ngũ” đối với gì ? – với “tam” ạ!
-
“Cốc” đối với gì? – với “cò” ạ!
Thấy
học trò đối đáp nhanh, thầy phấn khởi lắm.
Thầy
nhẩm lại “Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc” nghĩa là, vua thần nông dậy dân nghề
trồng cây lương thực, mà nay đôi lại với: Thánh – sâu – mác – quan – gừng – tam
– cò, thì nó là cái gì!? Thầy đồ tưng hửng vì cách tách chữ ra để đối.
Để
khắc phục lối tách chữ máy móc kiểu thầy đồ, ta cần học ôn lại ngữ pháp về phép
biến đổi từ. Chẳng hạn:
+
Danh từ kèm với tính từ đi sau, nó sẽ thành một danh từ kép, như mướp đắng,
phèn đen,...
+
Danh từ kèm với động từ đi sau, nó sẽ thành một danh từ kép, như cơm ăn,
áo mặc,...
+
Cũng có khi động từ kèm với danh từ đi sau, nó sẽ thành một danh từ kép, như tập
sự, học trò,… Chú ý rằng, chỉ khi chúng là từ Hán Việt thì mới trúng vào quy tắc
này.
+
Các tính từ kép được tạo ra bởi “tính từ + danh từ” như dữ da, mau mồm,...
+
Các động từ kép được tạo ra bởi “động từ + danh từ” như biết ơn, đánh hơi, ăn
cơm, uống nước,...
Chúng
tôi không thể nêu ra đủ các cách biến đổi từ trong khuôn khổ bài viết nhỏ này.
Mong độc giả hãy tìm hiểu tiếp từ sách giáo khoa, từ báo chí, thì có thể sẽ
phong phú hơn. Và, khi đọc thơ, làm đối,… chúng ta chú ý vận dụng quy tắc biến
đổi từ, để chúng ta dễ dàng cảm thụ và sáng tác.
Đối
ngẫu là điều kiện cần và đủ cho sự hoàn chỉnh một bài thơ luật, là vẻ đẹp đặc
trưng, là một biện pháp tu từ đặc sắc trong thi pháp thơ Đường. Đọc thơ luật mà
không có đối thì chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm”
thật là nhạt nhẽo và vô vị.
Bài
viết có thể còn nhiều thiếu sót. Rất mong bạn đọc chia sẻ thân tình.
NGUYỄN VĂN THỤ
(Hà Nội)
Nguồn: thoduongdatviet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét