Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 2 tháng 1, 2018

Xướng họa thơ Đường Luật

Bài viết của Phạm Văn Dương

Thi hữu Hải Yến tặng hoa tác giả Phạm Văn Dương ngày đầu năm 2018.

Làm thơ Đường Luật có một kiểu chơi đặc biệt thú vị, đó là xướng – họa. Người ta có thể còn xướng – họa với cả các thể thơ khác, nhưng thể thơ Đường Luật vẫn là tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất, phổ biến nhất. Có thể coi việc xướng – họa là một đặc trưng, một thế mạnh nổi bật của thơ Đường Luật.
       Trong lịch sử văn học có rất nhiều câu chuyện thú vị về xướng – họa thơ Đường Luật, có nhiều nhóm các nhà thơ nổi tiếng tham gia xướng – họa, có lẽ nổi tiếng nhất là Hội Tao Đàn của Vua Lê Thánh Tông hồi thế kỷ 15 ở Việt Nam. Nhà Vua tài năng tập hợp 28 ngôi sao sáng trên thi đàn lúc ấy vào Hội Tao Đàn, do đích thân Nhà Vua là Đại Nguyên soái, Thân Nhân Trung là Phó Nguyên soái. Trong một thời gian ngắn, Nhà Vua đã làm 9 bài xướng và các Hội viên họa lại, tập hợp thành cuốn “Quỳnh uyển cửu ca” (tiếc là hiện nay đã thất lạc mất nhiều, cả bài xướng, cả bài họa).
       Xướng – họa lúc đầu tổ chức theo nhóm, có một người đầu tiên sáng tác một bài gọi là bài xướng, mời hoặc “thách” cả nhóm, sau đó mọi người trong nhóm đáp lại bằng các bài họa căn cứ theo bài xướng đó. Sau này, các phương tiện truyền thông phát triển, nhất là thời đại internet ngày nay thì tự do hơn. Mỗi người cứ sáng tác bài thơ theo cảm xúc của mình và công bố trên phương tiện thông tin đại chúng, không nhất thiết tự coi là bài xướng và mời người khác họa. Những người khác, nếu thấy đồng cảm với một bài thơ nào đó thì tự mình làm một hay vài bài họa bài thơ đó, tự nhiên bài lúc đầu đó trở thành bài xướng.
       Có thể có nhiều người, dù là không quen biết nhau, nhưng cùng đồng cảm với một bài nào đó thì làm ra nhiều bài họa khác nhau, có khi có đến hàng mấy chục, thậm chí hàng trăm bài họa, trong đó có nhiều bài họa còn hay hơn bài đầu tiên (được gọi là bài xướng). Nhiều bài họa có thể coi là một bài thơ độc lập hoặc lại có nhiều người họa theo bài đó (vốn là một bài họa, nay trở thành bài xướng cho một chùm thơ khác). Như vậy, khái niện bài xướng, bài họa chỉ là quan hệ trong một chùm thơ cụ thể, trong đó các bài họa đều phải căn cứ theo bài xướng.
       Các bài họa nhất thiết phải cùng thể thơ với bài xướng (cùng là Đường Luật, hoặc cùng là Lục Bát,…), cùng một chủ đề và bài họa phải sử dụng đúng các vần của bài xướng.
       Cụ thể đối với thơ Đường Luật thể thất ngôn bát cú. Mọi bài thơ hay, nghiêm chỉnh về luật, niêm, đối, vận,… có nội dung, chủ đề được nhiều người đồng cảm, ý tứ sâu xa,… đều có thể trở thành bài xướng. Các bài họa theo bài xướng này phải cũng là một bài nghiêm về luật, niêm, đối, vận,… nhất thiết phải cùng chủ đề, nội dung với bài xướng, chỉ là biểu lộ thái độ, cảm xúc, suy nghĩ,… theo các khía cạnh, mức độ,… khác với tác giả bài xướng (thậm chí phản bác lại bài xướng), và phải sử dụng đúng các từ vần của bài xướng. Nếu chỉ sử dụng vần mà khác nội dung thì không thể gọi là bài họa mà chỉ là bài mượn vần của bài ban đầu. Cùng chủ đề, cùng bàn về một vấn đề nào đó, có thể dùng đầu đề khác nhau, cũng có nhiều người lấy luôn đầu đề của bài xướng, gọi là “họa y đề”.
       Chi tiết, bài họa sử dụng vần của bài xướng theo các hình thức sau:
      Họa nguyên vận: Tất cả 5 từ vần (hoặc 4 từ vần) tức các chữ thứ 7 trong các câu 1, 2, 4, 6, 8 (hoặc các câu 2, 4, 6, 8) của bài xướng phải được sử dụng trong bài họa theo đúng thứ thự các câu như bài xướng.
       Họa đảo vận: Các từ vần của bài họa sử dụng các từ vần của bài xướng theo thứ tự ngược lại.
      Họa hoán vận (loạn vận): Các từ vần của bài họa sử dụng đúng các từ vần của bài xướng nhưng không theo thứ tự nào.
       Nếu bài họa có ít nhất 1 từ vần nào đó không đúng với từ vần của bài xướng gọi là “lỗi xuất vận”.
       Trường hợp bài xướng là “bát vận đồng âm” thì bài họa phải sử dụng đúng cả 8 từ cuối các câu của bài xướng, nói chung là đúng theo thứ tự (nguyên vận), chưa thấy người nào họa đảo vận hoặc hoán vận trong trường hợp này.
       Có một yêu cầu khắt khe là tuy bắt buộc bài họa sử dụng từ vần (từ thứ 7 trong các câu vần) đúng với bài xướng, nhưng từ thứ 6 trong câu đó lại phải khác nhau, nếu để trùng nhau gọi là phạm “lỗi khắc lục”. Đặc biệt trường hợp từ thứ 6 và thứ 7 trong câu vần của bài xướng là một từ kép thì đòi hỏi người họa phải rất sáng tạo, tìm ra các từ đơn hoặc các từ kép khác để chỉ đồng âm từ thứ 7, ý nghĩa khác càng hay. Trong thực tế có những từ kép làm từ vần nhưng chỉ có 1 nghĩa, rất khó tìm được từ nào khác để tránh lỗi khắc lục, gọi là “tử vận”. Ví dụ, từ “mênh mông”, “xạc xào”, “khẳng khiu”,… thì người họa hoặc là đành chịu lỗi khắc lục, hoặc phải dùng các từ đơn đồng âm nhưng nghĩa khác hẳn, phải sáng tạo các từ mới hợp lý, có ý nghĩa, tránh gò ép,…
       Người làm bài họa đầu tiên thường có ý sử dụng luật trái với bài xướng. Ví dụ, bài xướng là luật bằng (chữ thứ 2 câu 1 thanh bằng) thì bài họa theo luật trắc (chữ thứ 2 câu 1 thanh trắc) và ngược lại. Như vậy thì bài họa nguyên vận hoặc họa đảo vận chắc chắn không bao giờ mắc “lỗi khắc lục” (nhưng họa hoán vận thì vẫn có thể mắc). Tuy nhiên nếu có nhiều bài họa thì không nhất thiết phải khác luật (nếu bài họa nào cũng khác luật bài xướng thì tất cả các bài họa lại cùng luật với nhau!).
       Người ta cũng đòi hỏi bài họa phụ thuộc nhiều hơn vào bài xướng, khi bài xướng sử dụng một lối chơi nào đó thì các bài họa cũng phải sử dụng lối chơi đó. Ví dụ, ngũ độ thanh, khoán thủ, khoán vĩ, tung hoành trục khoán, nhất thủ thanh, nhất vận, tứ đối,… và nhiều kiểu chơi khác rất phong phú, rối rắm mà có khi do người xướng cố tình đưa ra để “thử tài” các người họa phải tuân theo.
       Dưới đây xin nêu một số ví dụ các cặp xướng họa:

       Ví dụ 1: Họa nguyên vận. Bài xướng luật trắc, vần bằng. Bài họa luật bằng, vần bằng

Bài xướng:
Thú vui

Xướng họa thơ Đường, đẹp thú chơi
Bâng khuâng, rạo rực, thấy say đời.
Anh tìm chữ khéo, sâu đằm nghĩa
Em chọn từ hay, thắm thiết lời.
Bạn thích thiên nhiên, hồn đắm đuối
Tôi vui thế sự, dạ chơi vơi.
Giao hòa thi hữu, tình thân ái
Tri kỷ cùng ai, nở nụ cười…

Phạm Vũ Thanh


Bài họa:
Sân chơi

Bạn thơ Đường Luật lập sân chơi
Đàm đạo sâu xa mọi việc đời.
Tao nhã giãi bày hồn quyện tứ
Uyên thâm gửi gắm ý ngoài lời.(*)
Tình yêu chiêm nghiệm hằng không cạn
Thế sự suy tư mãi chẳng vơi.
Xướng họa giao lưu nâng trí tuệ
Khổ đau, cay đắng lẫn vui cười.

Phạm Văn Dương
(*) “ý tại ngôn ngoại”.

       Ví dụ 2: Họa đảo vận

Bài xướng:
Rét Nàng Bân

Tháng Ba hửng nắng, sắp tàn Xuân
Áo ấm cho anh dở mấy phần.
Áp lực thương trường quay chóng mặt
Yêu cầu công sở thúc nhanh chân.
Gia đình, cũng muốn tròn tình Vợ
Xã hội, còn lo vẹn nghĩa Dân.
Em cố may xong, Trời thấu hiểu
Liền cho trở gió: rét Nàng Bân!

Phạm Văn Dương


Bài tự họa:
Chuyện Nàng Bân

Tình yêu mãnh liệt của nàng Bân
Trời cũng phải chiều theo ý Dân.
Vừa loé nắng Nam hừng trước mặt
Đã tràn gió Bắc lạnh bàn chân.
Niềm vui kẻ nhận dù đôi chút
Hạnh phúc người trao gấp bội phần.
Câu chuyện nhân văn đầy cảm động
Sẽ còn mãi mãi với mùa Xuân.

Phạm Văn Dương

       Ví dụ 3: Họa hoán vận. Bài xướng luật trắc, vần bằng. Bài họa luật bằng, vần bằng

Bài xướng:
Đôi gà ở Hạ Long

Đôi gà âu yếm giữa trùng khơi
Làm chứng thiêng liêng có biển trời.
Mãi mãi cùng xem triều vỗ nhịp
Đời đời chung thưởng gió ru hời.
Mơ màng để sóng chiều ve vuốt  
Ngơ ngẩn nhìn trăng nước lả lơi.
To nhỏ đắm say ngàn thứ chuyện
Đôi ta chỉ có một trên đời!

Phạm Thị Thúy Lan


Bài họa:
Hòn Trống Mái

Sừng sững trơ gan giữa biển khơi
Sớm chiều nghe tiếng sóng ơi hời.
Chân dầm vô tận mênh mông biển
Đầu đội bao la bát ngát trời.
Câu chuyện ngàn năm không dứt đoạn
Lời nguyền vạn thuở chẳng hề lơi.
Mặc cho trời đất xoay vần mãi
Cứ đứng bên nhau suốt cuộc đời.

Phạm Văn Dương

       Ví dụ 4: Họa vần trắc. Bài xướng luật bằng, vần trắc. Bài họa luật trắc, vần trắc

Bài xướng:
Đông con

Nhà nghèo, con đói,… nhìn nheo nhóc
Cả đám thân hình như chiếc cọc.
Áo mặc rách bươm, chúng vẫn chơi
Cơm ăn thiếu thốn, em nào khóc!
Thằng Tèo lẩn quẩn chỉ lo… bò
Con Tũn loay hoay chưa biết… đọc.
Ngẫm nghĩ mới hay cảnh lắm con
Mẹ cha càng khổ nghèo, càng nhọc!

Diên Minh


Bài họa hoán vận:
Lắm vợ

Bồ nhí sinh thêm một cậu nhóc
Ông còn đâu “vợ cái, con cọc”.
Dì Hai đòi hỏi lắm cưng chiều
Chị Cả dằn lòng từng tiếng khóc.
Con trẻ bơ vơ mất hết vui
Người cha vướng mắc chỉ còn nhọc.
Tấm gương ai đó liệu bề soi
Bài học mỗi người tùy ý đọc.

Phạm Văn Dương

       Ví dụ 5: Bài xướng dùng các từ chuyên môn, bài họa phải cũng phải dùng các từ chuyên môn. Họa nguyên vận. Bài xướng luật trắc, vần bằng. Bài họa luật bằng, vần bằng

Bài xướng:
Miền quan họ

Đến hẹn người ơi nhớ lại lên
Miếng trầu cánh phượng chút làm quen.
Anh Hai thanh thản ngồi buông lái
Chị Cả bâng khuâng tựa mạn thuyền.
Bến nước trăng thanh ca điệu lý
Cầu ao gió mát hát giao duyên.
Mây trôi bèo dạt, ơi người ở!
Giã bạn ngẩn ngơ ánh mắt huyền.

Thanh Tâm


Bài họa:
Quê chèo

Trống chèo rộn rã đợi trăng lên
Trải chiếu sân đình đón khách quen.
Sa mạc, Dương xuân lưu luyến bến
Đò đưa, Đào liễu nhớ thương thuyền.
Đàn tam, đàn tứ tôn lời nhã
Mớ bảy, mớ ba thắm nét duyên.
Tan hội Lới lơ còn réo rắt
Ngẩn ngơ nhớ ánh mắt đen huyền.

Phạm Văn Dương

       Ví dụ 6: Các lối chơi Ngũ độ thanh, Bát vận đồng âm

Bài xướng:
Dòng sông thơ

Xướng họa Đường Thi não chẳng già
Vun tình gắn nghĩa bạn cùng ta.
Người khơi tứ đẹp vần say nhả
Kẻ giũa từ hay ý quyện hòa.
Cuộc sống muôn màu sôi những ngả
Tình yêu vạn sắc nở ngàn hoa.
Nguồn thơ rộng lớn như dòng Cả
Nặng chứa trong lòng đỏ mãi sa.

Phạm Ngọc Toàn


Bài họa:
Sông thơ

Dõi mạng tìm vui thú tuổi già
Làm thơ đáp đổi bạn và ta.
Người giao nghĩa nặng câu còn nhả
Kẻ họa tình sâu ý mãi hòa.
Xuất nữa vần hay tràn mọi ngả
Thu dồn tứ đẹp của ngàn hoa.
Êm  đềm sóng vỗ dòng sông Cả
Đỏ thắm đôi bờ những hạt sa.

Phạm Văn Dương

       Ví dụ 7: Khoán thủ, hạn vận (bắt buộc phải họa nguyên vận). Bài xướng luật trắc, vần bằng. Bài họa luật bằng, vần bằng

Bài xướng:
Duyên xưa

Đêm thở hương nồng quyến rũ ta
Xuân kiều nhón bước nhẹ nhàng qua
Trăng thanh lồng bóng về chung lối
Gió mát đưa duyên kết một nhà
Hẹn thuở đầu xanh giờ hóa lão
Chờ khi môi thắm hiện nên 
Bến xưa đò cũ sông còn biếc
 được cùng nhau hưởng phước già.

Trúc Giang
 Khoán thủ: Đêm Xuân Trăng Gió Hẹn Chờ Bến Mơ
       Hạn vận: ta – qua – nhà – bà – già


Bài họa:
Duyên già

Đêm nào ly biệt của hai ta
Xuân níu người đi khó bước qua.
Trăng chiếu đẩy người rời khỏi núi
Gió lay giữ kẻ ở trong nhà...
Hẹn ngày trở lại... thành ông cụ
Chờ buổi gặp nhau... hóa lão .
Bến cũ, người xưa, sông núi đó
 sao thắm mãi mối duyên già.

Phạm Văn Dương

       Ví dụ 8: Tung hoành trục khoán

Bài xướng:
“Thi tướng” Huỳnh Văn Nghệ

TỪ vùng chiến sự thế tiên phong
ĐỘ ấy binh đao quyết một lòng.
MANG súng diệt thù tâm tỏa sang
GƯƠM vung trừ ác dạ ngời trong.
ĐI đầu chiến tuyến mười năm chẵn
MỞ lối khu Đ chín tháng ròng.
CÕI mộng luôn nghiêng về hướng Bắc
TRỜI NAM THƯƠNG NHỚ ĐẤT THĂNG LONG!

Xuân Lộc
Câu khoán được lấy từ bài thơ “Nhớ Bắc” của “Thi tướng rừng xanh” Huỳnh Văn Nghệ.


Bài họa:
Đi chiến đấu

TỪ trong huyết quản khí xung phong
ĐỘ nóng trào dâng bỏng cháy lòng.
MANG nặng tinh thần luôn phấn khởi
GƯƠM ngời lý tưởng mãi tươi trong.
ĐI đường thắng lợi quên mưa xối
MỞ lối thành công mặc nước ròng
CÕI lạ những đêm hoài kỷ niệm
TRỜI NAM THƯƠNG NHỚ ĐẤT THĂNG LONG!

Phạm Văn Dương

P.V.D.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét