Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2020

Vài nét về cuộc đời Lý Bạch

Lý Bạch 李白 (701 – 762), thời thịnh Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc, nhưng sinh ra ở làng Thanh Liên, tỉnh Tứ Xuyên. Người đời phong cho ông là Thi Tiên, Tửu trung Tiên,v.v... Ông thích thơ ca, săn bắt, ngao du sơn thủy, bạn vong niên với Đỗ Phủ (hơn Đỗ Phủ 11 tuổi).


Bí ẩn về cái chết của Lý Bạch
Tương truyền, năm 61 tuổi, Lý Bạch đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống rượu say, thấy ánh trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm Chị Hằng mà chết. Đó là tương truyền, còn cuốn Dung Trai tùy bút của Hồng Mại, đời Tống cũng đề cập đến cái chết của Lý Bạch, nhưng nguyên nhân hoàn toàn khác. Theo cuốn sách đó thì Lý Bạch bị bệnh và qua đời trong phủ huyện, người chú họ là Lý Dương Băng làm huyện lệnh Đương Đồ, tỉnh An Huy.
Chuyện đã xy ra hơn ngàn năm, chưa biết thực hư thế nào. Liệu có phải người đời đã tưởng tượng ra và truyền miệng chuyện nhà thơ ôm bóng trăng rồi chết đuối cho đúng với tính cách Tửu trung Tiên của Lý Bạch không? Tương truyền mà! Còn cuốn Dung Trai tùy bút tường thuật cả quá trình lâm bệnh của Lý Bạch. Sách được viết thời Tống, tiếp ngay sau nhà Đường, tư liệu có hoàn toàn chính xác không? Nhưng tương truyền cũng nói cụ thể nhà thơ đã nhảy xuống sông Thái Thạch. Liệu có phải trong đời mình ông đã từng nhảy xuống sông để ôm chị Hằng, nhưng được vớt lên, không chết. Rồi người đời lại thêu dệt ra cho thêm phần lãng mạn?

Một vài bài thơ của Lý Bạch

Bài 1:
HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch nghĩa:
LẦU HOÀNG HẠC TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG

Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Hoa khói tháng ba xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.

Bản dịch thơ của Đinh Nho Hồng:

Tiễn bạn về tây tại Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Trường Giang vẫn chảy bên trời thẳm
Bóng chiếc buồm đơn biếc một màu


Chú thích:
1/- Lầu Hoàng Hạc được dựng trên ghềnh đá Hoàng Hộc, núi Xà Sơn, ở phía tây nam phủ Vũ Xương xưa, nay là thành Vũ Xương, cùng với thành Hán Khẩu, cách nhau bởi cầu Trường Giang, tạo nên thành phố Vũ Hán, nằm hai bên bờ sông Dương Tử (Trường Giang), tỉnh Hồ Bắc. Lầu được xây từ đời Đông Ngô, thời Tam Quốc, là thắng cảnh gắn với truyền thuyết người tiên cưỡi hạc vàng (hoàng hạc). Tương truyền Phí Huy Văn khi lên tiên từng cưỡi hạc vàng đỗ lại đây.
Đã có nhiều thơ văn đề vịnh về Hoàng Hạc lâu, được nhắc đến nhiều nhất là thơ Lý Bạch và Thôi Hiệu (trong phần dịch thơ này, chúng tôi cũng sẽ giới thiệu thơ Thôi Hiệu). Nhiều thi nhân nổi tiếng khác của Trung Quốc, cũng như các sứ thần Đại Việt khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) đã ghé qua đây và để lại những bài thơ bất hủ về địa danh này.
2/- Quảng Lăng nay thuộc huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô. Dương Châu tức Quảng Lăng
3/- Mạnh Hạo Nhiên: Nhà thơ cùng thời với Lý Bạch (sẽ được giới thiệu trong thơ Mạnh Hạo Nhiên dưới đây).

Bài 2:

ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI

Phượng Hoàng đài thượng phượng hoàng du,
Phượng khứ đài không giang tự lưu.
Ngô cung hoa thảo mai u kính,
Tấn đại y quan thành cổ khâu.
Tam Sơn bán lạc thanh thiên ngoại,
Nhị thủy trung phân Bạch Lộ châu.
Tổng vị phù vân năng tế nhật,
Trường An bất kiến sử nhân sầu.

Dịch nghĩa:
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG

Trên đài Phượng Hoàng đã từng có phượng hoàng qua lại
Từ khi phượng bay mất chỉ còn trơ đài và nước sông tự chảy
Hoa cỏ che lối đi âm u của Ngô cung
Khăn đai quan lại đời Tấn đã thành gò hoang
Dãy Tam Sơn nhô lên nối liền với trời xanh xa tít
Bãi bồi Bạch Lộ chia đôi hai nhánh sông
Chỉ bởi tại mây trôi làm che mất mặt trời
Không nhìn thấy Trường An làm người ta cảm thấy u sầu

Bản dịch thơ của Đinh Nho Hồng:

Đài Phượng Hoàng xưa phượng ghé chơi
Phượng đi đài vắng, nước sông trôi.
Cung Ngô hoa cỏ trùm đường ngõ
Đời Tấn khăn đai hóa đất đồi.
Dãy núi Tam Sơn trời che nửa
Bãi bồi Bạch Lộ nước chia đôi.
Mây bay phủ khuất mờ vầng nhật
Đâu bóng Trường An? Dạ rối bời.

Chú thích: Thành Kim Lăng ở Nam Kinh, được xây đắp từ đời Đông Ngô, nơi đóng đô của sáu triều đại: Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần. Cuối đời Đông Tấn được đổi tên là Đài Thành. Đến nay, di chỉ còn lại ở ven hồ Huyền Vũ, thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô. Nhiều nhà thơ Trung Hoa, đặc biệt vào thời Đường, đã để lại những bài thơ bất hủ về Kim Lăng. Còn thành Nam Kinh, thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay, từng là kinh đô một thời của nhà Minh, trước lúc dời lên Yên Kinh (Bắc Kinh).
Trung Hoa xưa còn có một tòa thành nữa được vua Đường Huyền Tông đặt tên là Nam Kinh.
Năm 755, tướng Hồ là An Lộc Sơn phản lại nhà Đường, kéo quân chiếm hai kinh đô Trường An (gọi là Tây Kinh) và Lạc Dương (gọi là Đông Kinh). Vua Đường Huyền Tông phải chạy đến Thành Đô (đất Thục) và gọi là Nam Kinh. Ông nhường ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng.
Nhân sự kiện này, Lý Bạch đã làm 10 bài thơ lấy tên là Thượng hoàng Tây tuần Nam Kinh ca, từ kỳ 1 đến kỳ 10. Có nghĩa là "Bài ca Thượng hoàng đi tuần về phía Tây đến Nam Kinh", từ bài 1 đến bài 10.
Lý Bạch cố tình nói chệch là Thượng hoàng đi tuần, thực chất là vua chạy loạn. (Có lẽ tác giả sống dười thời nhà Đường, nên không thể nói thẳng).
Sau đây xin giới thiệu kỳ 4 trong loạt bài trên của Lý Bạch:




         Bài 3:
                                          西
                     THƯỢNG HOÀNG TÂY TUẦN NAM KINH CA, KỲ 4

Thùy đạo quân vương hành lộ nan,
Lục long tây hạnh vạn nhân hoan.
Địa chuyển Cẩm Giang thành Vị Thủ,
Thiên hồi Ngọc Lũy tác Trường An.

Dịch nghĩa:
THƯỢNG HOÀNG TÂY TUẦN NAM KINH CA, KỲ 4

Ai nói với nhà vua đường đi khó
Sáu con long mã về Tây đem niềm may mắn, vạn người vui mừng
Đất chuyển sông Cẩm  Giang thành sông Vị Thủy
Trời xoay Ngọc Lũy nhìn giống Trường An.

Bản dịch thơ của Đinh Nho Hồng:

Về Tây vua tiến chẳng gian nan
Mừng rỡ muôn dân đón Thượng Hoàng.
Đất chuyển Cẩm Giang thành Vị Thủy
Trời xoay Ngọc Lũy tựa Trường An.

Bài 4:
BỒI THỊ LANG THÚC DU ĐỘNG ĐÌNH TÚY HẬU

Hoa khước Quân sơn hảo,
Bình phô Tương thủy lưu.
Ba Lăng vô hạn tửu,
Túy sát Động Đình thu. 

Dịch nghĩa:
SAU KHI ĐI CHƠI HỒ ĐỘNG ĐÌNH VỚI CHÚ LÀM THỊ LANG, UỐNG TỚI SAY

Chèo thuyền rời núi Quân tốt,
Nước sông Tương êm trôi phẳng lặng.
Rượu uống trên núi Ba Lăng tha hồ,
Vẻ thu ở hồ Động Đình đẹp mê hồn khiến người say.

Bản dịch thơ của Đinh Nho Hồng:

Rời núi Quân êm đẹp
Tới sông Tương phẳng lỳ.
Rượu Ba Lăng thỏa thích       
Thu Động Đình mê ly.

Lầu Hoàng Hạc trên ghềnh đá Hoàng Hộc, núi Xà Sơn, ở phía tây nam phủ Vũ Xương xưa, nay là thành Vũ Xương, thành phố Vũ Hán,
bên bờ sông Dương Tử (Trường Giang), tỉnh Hồ Bắc (Ảnh chụp tháng 01 năm 2020)

Chú thích: Hồ Động Đình là một hồ nổi tiếng thuộc phủ Nhạc Châu, nay là huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam. Sông Tương là một sông lớn chảy vào hồ. Trong hồ có núi Quân (Quân Sơn), là một đảo gồm 12 ngọn núi ở giữa hồ, có giống trà nổi tiếng. Xưa kia, đây là nơi ẩn cư của các đạo sĩ. Tương truyền cung phi của vua Thuấn là Tương Quân đã đến đây, nên được mang tên là Quân Sơn. Những địa danh liên quan đến quần thể hồ Động Đình đã gây thi hứng cho biết bao mặc khách tao nhân. Ba Lăng cũng thuộc huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam.

ĐINH NHO HỒNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét