Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 10 tháng 3, 2021

Thử bàn về các thi phái Thơ luật Đường hiện nay


Vừa rồi, có một hai ACE tranh luận hơi to về bệnh thơ, coi bệnh thơ là luật thơ. Tôi thấy cần thiết nên đăng lại bài này, mong ACE chưa đọc, nay xin đọc lại để cùng nhau trao đổi.

Bài viết này chỉ xin đề cập đến vấn đề: Thử tìm hiểu sự khác nhau, sự giống nhau giữa các dòng thi pháp, tránh tình trạng đa luận, đa thức, làm cho người mới vào làng Đường luật phải bỡ ngỡ với câu hỏi đâu đúng, đâu sai.

Đọc thơ trên mạng hiện nay, tôi thấy phong trào sáng tác thơ luật Đường đang có 3 thi phái, chúng bình đẳng với nhau như sau:

1- Thi phái Trần Trọng Kim

Trần Trọng Kim (1883 – 1953) là một học giả lớn của Việt Nam. Ông truyền bá cách làm thơ luật trong Việt Nam Văn phạm, NXB Lê Thăng, 1939 1940. Dưới đây xin viết tắt là Thi phái TTK. Phái thi pháp này chỉ chú trọng đến 5 luật cơ bản của thơ; đó là:

- Bố cục;

- Vần;

- Đối;

- Luật bằng trắc

- Niêm.

Thi phái TTK nói: Để thơ giảm bớt sự gò gẫm, các cụ xưa đã đưa ra lệ “nhất tam ngũ bất luận/ nhị tứ lục phân minh”. Nghĩa là, các chữ trong một câu thơ ở vị trí 1, 3, 5 được phép tùy ý người làm thơ đặt bằng hay trắc, không cần theo quy định. Còn các chữ ở vị trí 2, 4, 6, 7 thì nhất thiết phải giữ đúng bảng luật.

Từ cái lệ này, lại phát sinh ra bệnh khổ độc (khó đọc), nên lại phải đưa ra quy định đối với thơ thất ngôn:

- Chữ ở vị trí thứ 3 trong câu có vần, trừ câu thứ nhất, nếu nó vốn là thanh bằng, thì không được phép đổi thành thanh trắc, nhưng nó vốn là thanh trắc, thì cho phép chuyển thành thanh bằng, vì theo lệ tam bất luận.

- Chữ thứ 5 trong câu không vần, thơ luật trắc: nếu nó vốn là bằng thì phải giữ nguyên; nếu nó vốn là trắc, thì theo tam bất luận, ta có thể đưa nó thành bằng.

- Chữ thứ 5 trong câu không vần, thơ luật bằng: nếu nó vốn là bằng, mà ta đổi thành trắc, thì không xẩy ra khổ độc.

Nhà nghiên cứu thi pháp Lạc Nam, vào thập niên 90 thể k trước, trung thành theo Thi phái TTK, còn nói rõ thêm một số khuyết tật trong thơ Đường luật nên tránh (NÊN chứ không là PHẢI):

Năm bệnh thuộc về VĂN PHÁP:

1. Bênh dùng nhiều hư từ (như: thì, là, bởi, lại, nhưng…).

2. Bệnh điệp từ không có dụng ý.

3. Bệnh điệp ý các câu và bệnh nứa bổ trong cặp Thực, Luận.

4. Bệnh điệp vần

5. Bệnh mạ đề, từ câu 3 đến câu 8 có nhắc đến các chữ của đầu đề.

Bốn bệnh thuộc về THI NHẠC:

1. Bệnh Phong Yêu, theo Lạc Nam là: chữ thứ 2 điệp âm với từ thứ 6; từ thứ 4 điệp âm với chữ thứ 7 trong một câu. Nhưng Lạc Nam nói thêm, chỉ cố tránh từ thứ 4 thôi, còn như từ thứ 2, tránh được cũng tốt mà không tránh được cũng không sao.

2. Bệnh Hạc Tất, theo Lạc Nam là: một câu thơ bị gãy làm 3 đoạn (như: Ngày tái ngộ/ hòa cài/ đẹp bút – Chữ tương phùng/ nét điểm/ tươi son).

3. Bệnh Bình Đầu, theo Lạc Nam là: 3 – 4 chữ đầu câu của cặp Thực, Luận có cấu trúc ngữ pháp giống nhau.

4. Bệnh Tịnh Cước theo Lạc Nam là: 3 từ cuối câu của cặp Thực, Luận giống nhau về cấu trức ngữ pháp.

Ngoài 9 bệnh trên ta không thấy Lạc Nam nói đến các bệnh nào nữa.

2- Thi phái Quách Tấn (ông sống trong khoảng 1910 – 1992)

Thi phái này cũng như Thi phái TTK, rất coi trọng LUẬT thơ. Còn về thi bệnh, ông có nêu 5 bệnh về văn pháp giống Thi phái TTK như đã nói bên trên. , ông có nêu 8 bệnh về thi nhạc như sau:

1. Bình Đầu;

2. Tịnh Cước; (1) (3) giống như Thi phái TTK.

3. Bàng Nữu;

4. Chánh Nữu; (3) (4) trong Thi phái TTK không thấy nêu.

5. Phong Yêu, khác hẳn với Thi phái TTK. Là bệnh mà chữ thứ 2 điệp thanh với chữ thứ 7.

6. Hạc Tất, cũng khác hẳn với Thi phái TTK. Là bệnh mà chữ thứ 4 điệp thanh với chữ thứ 7.

7. Tiểu Vận, là chữ thứ 2 điệp âm (điệp vần) với chữ thứ 6.

8. Đại Vận, là chứ thứ 4 điệp âm (điệp vn) với chữ thứ 7.

Tôi trình bầy theo nội dung bên trên là tôi mặc nhiên coi ACE đã đọc, đã thuộc luật thơ, thuộc bệnh thơ. , ai cũng hiểu lai lịch nguồn gốc của luật thơ, bệnh thơ.

Bệnh thơ có trước luật thơ. Sách xưa có nói, cứ có người là có bệnh về người, cũng như cứ có thơ là có bệnh của thơ.

Luật thơ có từ thời Thịnh Đường, (716 – 766). Vậy bệnh thơ đã có từ những năm trước đó rất xa. Nhưng cho mãi đến thời nhà thơ Thẩm Ước (441 – 513), ông mới là người phát biểu lên là THI BỆNH.

Tôi nói đến việc này là để cho có một số ACE cho rằng, bệnh thơ chỉ là do hôm nay hiếu k đặt ra.

3. Ngoài 2 Thi phái nêu trên, ta còn thấy nhiều Thi phái nêu ra thi luật, thi bệnh chặt chẽ hơn.

Có Thi phái, đồng thuận về thi bệnh như Thi phái Quách Tấn, nhưng về luật thơ thì chỉ theo đúng bảng luật Bằng Trắc, không làm theo tam bất luận. Chỉ chấp nhận phép đối chỉnh thể, không chấp nhận các phép khoan đối.

Lại còn một Thi phái mới nữa ra đời. Đó là thi phái NGŨ ĐỘ THANH do Ngô Bích Thuận (Ngô Gia Tôn Tử), gốc Việt, sống ở Đài Loan công bố lần đầu tiên trên MXH vào đầu năm 2013.

Nay, tôi xin phát biểu:

Các thi pháp của các thi phái đều có cái hay riêng. Theo thứ tự trình bầy của bài viết này thì, các thi phái càng về sau, thì càng tinh tế, diệu nghệ. Nhưng tôi nghĩ: Để làm được thơ NGŨ ĐỘ THANH mà đạt đến độ hoàn hảo về thanh luật, về thi tứ, thì công phu lắm, phải là tay làm thơ điêu luyện mới theo được. Cũng vậy, để theo được Quách Tấn, vừa sạch bệnh, vừa có thi tứ, vừa có ý hàm xúc, thì người học hỏi cũng rất công phu.

Cho nên, với các thi pháp đã nêu, trong giai đoạn này, chúng ta khuyến khích ai học được cứ làm, cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng. Còn ai ít dụng công hơn, thì có thể cứ theo thi phái Trần Trọng Kim – Lạc Nam, nghĩa là ta cứ theo tiền nhân từ nhiều thế k trước; Thi phái này có khuynh hướng tự do hơn về thanh luật, dễ tiếp thu hơn đối với người mới học làm thơ Đường luật. Và, khi đã thành thạo rồi, ta phải tìm cách nâng cao học theo QuáchTấn, học theo cách “phi tam bất luận”.

Cuối cùng, tôi vẫn xin ACE đừng nhầm BỆNH thơ là LUẬT thơ. Luật thơ thì có 5 như đã nói trên đây. Còn bệnh thơ thì có nhiều. Thơ mắc bệnh chỉ là thơ chưa hay về nhạc tính, chứ không phải là thơ thất luật.

Xin trao đổi mấy ý kiến, xin ACE cùng cảm thông, và không nên k thị nhau về thơ mắc bệnh.

 

NGUYỄN ĐỨC THỤ

(Phó Chủ tịch Hội Thơ Đường luật Việt Nam)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét